BÀI THƠ HỎI NGÃ
 TIẾNG VIỆT TA... HAY THẬT....!
 MŨM MĨM béo, MỦM MỈM cười.
 CỦ quả dành để biếu người CŨ xưa.
 KIỄNG chân, chậu KIỂNG đu đưa
 KẺO hết, KẼO kẹt đêm mưa võng buồn.
 HỔ thẹn chưa HỖ trợ lương.
 GÃ kia GẢ bán người thương vì tiền
 HẢO tâm lo chuyện HÃO huyền.
 Đi buôn LỖ vốn, nước màu LỔ loang.
 PHỦ phê chừ mới PHŨ phàng
 Nửa đường GÃY gánh, GẢY đàn tìm vui.
 GÃI đầu tính ngược, tính xuôi.
 Còn lưng NỬA vốn NỮA thời tính sao.
 GIÃI bày GIẢI nghĩa dễ đâu
 Chưa kịp ẩu ĐẢ qua cầu ĐÃ xong.
 Run RẨY phát RẪY dọn nương
 GỠ rối điềm GỞ rộng đường nhân sinh.
 Chú RỂ bứt RỄ cây quỳnh
 Ra sức BỬA củi cho mình BỮA ăn.
 BẨM thưa, bụ BẪM con người
 Nói năng tao NHÃ, chim kia NHẢ mồi.
 MÃ ngoài mồ MẢ xinh tươi
 Nhường cơm SẺ áo cho người SẼ vui.
 Linh CỮU vĩnh CỬU ai ơi
 CỮ kiêng CỬ động bệnh thời sẽ qua.
 TẺ nhạt, gạo TẺ của ta
 Gần mà giữ KẼ thà ra KẺ thù.
 KHẺ mỏ, nói KHẼ như ru
 CỖ bàn, CỔ kính công phu phụng thờ.
 BỖNG dưng trầm BỔNG bất ngờ
 BĨU môi dè BỈU ai chờ đợi ai.
 Bắt BẺ, BẼ mặt tía tai
 LẺ loi lý LẼ gạt ngoài chẳng nghe.
 Ngoài vườn CHỎNG gọng CHÕNG tre.
 CẢI thiện, CÃI lại khó mà hoà nhau.
 CHĨNH (hũ) tương nghiêng, CHỈNH sửa mau.
 CỦNG cố lời nói cho nhau CŨNG đành.
 CỞI trói CỠI (cưỡi) ngựa phi nhanh
 Xem ai cứng CỎI được dành CÕI tiên.
 BẢO ban, BÃO tố khắp miền
 HẢNH nắng, HÃNH diện tuỳ duyên tuỳ thời.
 Hồ đầy XẢ nước cho vơi
 Giữ gìn XÃ tắc kẻo thời suy vong.
 Chèo BẺO, bạc BẼO dài dòng
 Quê hương rất ĐỖI ĐỔI thay phố phường.
 NGHĨ mình ngơi NGHỈ dưỡng thương
 TĨNH tâm TỈNH ngộ tìm đường ẩn cư.
 TIỂU đội còn bận TIỄU trừ
 Ngỡ rằng bảnh TẺN thành dư TẼN tò.
 SẢI tay chú SÃI thập thò
 Nhân sự thừa THÃI bị toà THẢI ra.
 Đứng SỮNG, SỬNG sốt sợ ma
 Trẻ thơ nói SÕI nhặt SỎI đá trôi.
 TRẢ nợ bằng một TRÃ xôi
 NÃY giờ còn đợi hạt thôi NẢY mầm.
 Ẩn SĨ, SỈ nhục giận căm
 GIẢ dại GIÃ gạo thăng trầm cho qua.
 QUẪN trí nghĩ QUẨN sa đà
 Chấp nhận xúi QUẨY hơn là QUẪY đuôi.
 Đâm THỦNG, THŨNG xuống thấp rồi
 Đòn BẨY được dịp lên đồi BẪY chim.
 Đội NGŨ giấc NGỦ lim dim
 Ân SỦNG ướt SŨNG nằm im chờ thời.
 TỦM tỉm, đánh TŨM không lời
 VĨ cầm, VĨ tuyến... VỈ ruồi giúp ta.
 Rác RƯỞI gấp RƯỠI hôm qua
 ĐẨY xe, ĐẪY giấc người ta chối từ.
 ĐẢNG phái, ĐÃNG trí ưu tư
 DỞ hơi, DỞ thói tật hư DỠ nhà.
 LẨN quẩn, LẪN lộn tuổi già
 ĐỈNH chung, ĐĨNH đạc cũng là ĐỈNH cao.
 ĐỂ dành, hiếu ĐỄ về sau
 Cô bé tròn trịa thật là DỄ thương.
 DỎNG tai, DÕNG dạc khiêm nhường
 RẢNH rỗi san lấp RÃNH mương trước nhà.
 Qua NGÕ, NGỎ lời hát ca
 QUẢNG cáo - thực tế cách ba QUÃNG đường.
 RỦ rê quyến RŨ nhiễu nhương
 RỔ sảo, RỖ mặt vấn vương một thời.
 CHỬA đẻ, CHỮA bệnh ai ơi
 Trường hợp HÃN hữu xin thời bỏ qua.
 Phá CŨI làm CỦI bếp nhà
 Xén bớt công QUĨ, QUỈ ma chẳng từ
 Hạt DẺ, đất DẼ suy tư.
 Sàng SẢY ít gạo đến giờ chưa xong
 RỬA nhục thối RỮA mặc lòng.
 Hen SUYỄN, suy SUYỂN đợi mong bao ngày.
 CƯỠNG đoạt chim CƯỞNG trong tay
 Xin đừng cà RỠN... RỞN gai ốc rồi.
 SỬA chữa, SỮA mẹ em ơi
 SẪM màu, SẨM tối xin mời ghé thăm.
 MẨU bánh dành biếu MẪU thân
 Đắt RẺ, ngã RẼ bao lần em qua.
 SỖ sàng, SỔ toẹt chẳng tha
 GIẢ thật, GIÃ gạo cho qua tháng ngày.
 Gây GỔ, cây GỖ chuyền tay
 Cánh HẨU chầu HẪU ngồi chờ đổi ngôi.
 Mưa rỉ RẢ mệt RÃ người
 RÃO gân cốt, RẢO bước thời đi nhanh.
 Cây SẢ, suồng SÃ là anh
 TẢ thực, TÃ lót để dành trẻ con.
 Chàng HẢNG ai mở HÃNG buôn
 KỶ luật KỸ xảo mình luôn ghi lòng.
 HỦ tục, HŨ gạo ngày đông
 Hỏi NGÃ khó, chớ NGÃ lòng NGẢ nghiêng...!
 ( Trọng Nghĩa & Cha sưu tầm ).
Tóm tắt vài luật chánh:
1) Bao giờ cũng có những trường hợp ngoại lệ hay bất quy tắc (irregular), nên không quả quyết các luật sau đúng 100%.Những trường hợp này chỉ có cách “học thuộc lòng”hay tra tự điển.
2) Luật lập láy: "Không Sắc Hỏi; Huyền Nặng Ngã" a)Tiếng nôm đôi: Dấu sắc, không dấu và dấu hỏi đi với dấu hỏi; huyền, nặng và ngã đi với dấu ngã: Hớn hở, bẽ bàng, vạm vỡ, v.v.b) Tiếng nôm đơn: luật này cũng như trên "Không Sắc Hỏi; Huyền Nặng Ngã", nhưng hữu ích và cần tinh tế nhận xét hơn để tìm chữ "biến dạng" hay tương tự của chữ nôm đơn.Thí dụ: chữ "ngăn cản", nếu nhớ chữ tương đuơng là "can" (0 dấu) thì biết cản phải dấu hỏi. Vài thí dụ khác: đối chọi và đối chõi, cội nguồn và cỗi nguồn, lén và lẻn, chưa và chửa, đỗ và đậu, xõa (tóc) và xòa, ngỡ và ngờ ...
3) Trạng từ (adverb) thường được viết dấu ngã: cũng, đã, sẽ, nữa.
4) Hầu hết các họ tên đều bỏ dấu ngã: Nguyễn, Vũ,Lã, Lữ, Ðỗ, Mã,... [nhưng họ"Chử" lại viết với dấu hỏi.
]5) Chữ Hán Việt bắt đầu bằng phụ âm D, L, M, N, V được viết dấu ngã. Mẹo để nhớ (Cao Chánh Cương): “Dân Là Vận Mệnh Nước”, hoặc “Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã” Dĩ Vãng, Lãng mạn, thương Mãi, phụ Nữ, Ngẫu nghiên, v.v. Một ngoại lệ: ngải cứu.Những chữ (gốc Hán) khác viết dấu hỏi. Tuy nhiên có vài chục ngoại lệ bãi, bĩ, cữu, hãm, hoãn, hữu, kỹ, sĩ, trẫm, trữ, xã, v.v., và có những trường hợp hỏi hay ngã tùy nghĩa Hán Việt (sỉ và sĩ, cửu và cữu, xả và xã, ...) --
Coi lại luật số 1.a) Chữ Hán Việt bắt đầu bằng nguyên âm đều dấu hỏi (không có ngoại lệ?): quan ải, ẩm thực, ẩn dật, ổn thỏa, ...

