Má Năm cầm cây que nhỏ, đầu que được buộc với mấy miếng giẻ rách, tay má Năm phe phẩy cây que để xua đuổi mấy con ruồi đang muốn bu vào mấy củ khoai lang luộc, được má Năm xếp trên một cái mẹt bằng tre nứa đã chuyển sang màu đen vì đóng cáu lâu ngày. Mấy củ khoai lang luộc còn sót lại trên mẹt sau một ngày phơi nắng, giờ bị nứt nẻ bày cả ruột khoai bên trong ra khiến cho mấy con ruồi cứ bay lòng vòng muốn sà xuống. Má Năm tay phe phẩy đuổi ruồi, miệng thầm vái ông địa, mong cho có người mua hết mấy củ khoai này để má còn kịp về nhà làm mâm cơm cúng rước ông bà về ngày cuối năm.
Chiều đã ngã bóng, mọi người ai nấy đều hối hả rảo bước rời khỏi phiên chợ chiều cuối năm để còn mau kịp về nhà, không có ai quan tâm đến má Năm đang dõi mắt nhìn theo, với hy vọng sẽ có người dừng chân lại mua giùm má mấy củ khoai còn lại.
Người thưa dần, má Năm uể oải chống tay đứng dậy, bưng mẹt khoai lê bước về phía đầu cầu, bên kia cầu là căn nhà tôn đã xiêu vẹo, dột nát của má. Má Năm được nhà nước liệt vào hộ nghèo, có công với cách mạng, cần được giúp đỡ. Nhà nước đã có công văn từ ba năm trước, quyết định cấp cho má một căn nhà tình nghĩa, nhưng má Năm chờ hoài, chờ hết năm này qua tháng nọ, mà má vẫn chưa thấy được căn nhà tình nghĩa nó ra làm sao cả. Lâu rồi má Năm cũng quên tuốt luốt luôn. Còn lại mấy củ khoai chiều nay về nấu nồi chè khoai trước cúng ông Địa, cúng rước ông bà về ngày cuối năm. Sau nửa, còn có cái mà ăn ngày đầu năm với người ta.
Hôm Rằm tháng Chạp, thằng Ba Cục bí thư huyện uỷ, cùng với vài thằng to đầu ở đâu trên tỉnh xuống mang theo cờ xí đỏ lòm, làm lễ phân phát cờ tổ quốc và ảnh bác Hồ cho các gia đình có công với cách mạng, gọi là để mừng đảng, mừng xuân. Má Năm cũng được xếp hàng chờ lãnh cùng với đâu cỡ chừng gần 20 chục gia đình khác. Má Năm đứng ôm lá cờ và tấm ảnh, chờ xem ngoài lá cờ và tấm ảnh, thì trên còn có ban tặng gì khác có thể ăn được trong ba ngày Tết không ? Nhưng tất cả chỉ có vậy, cộng thêm vài lời động viên sáo ngữ, má Năm tủi thân đứng khóc, thằng Ba Cục thấy vậy tưởng má Năm xúc động nên khóc, bèn quay sang ôm má kêu đám thợ chụp hình bấm lia lịa, đặng còn đăng báo, đăng đài, chia sẻ ân tình của đảng đến với dân trong những ngày Tết của dân tộc.
Má Năm tên thật là Nguyễn Thị Dần, là cái tên cúng cơm do cha mẹ má Năm đặt cho, do bởi hồi nẩm má Năm sinh ra nhằm đúng vào năm con cọp, ở nhà quê, người dân đầu óc đơn giản, không có nhu cầu đặt tên cho con bằng những cái tên nghe toát ra vẻ cao sang, hoặc bằng tên các loài hoa đẹp như ở thành thị. Má Năm sinh ra vào năm con cọp, cha mẹ liền đặt cho con gái cái tên Dần, đơn giản và mộc mạc như người dân quê của miền Tứ Thôn Đại Điền. Cô Dần lớn lên theo cùng năm tháng, học hết bậc tiểu học của ngôi trường trong làng thì thôi học, vì muốn học thêm nữa thì phải đi xa nhà, qua bên quận mới có trường trung học. Thấy bất tiện, cha mẹ Dần đã cho cô nghĩ học để giúp việc nhà.
Năm cô Dần 17 tuổi, do có người mai mối, cha mẹ Dần đã gả con cho một chàng trai ở thôn Đại Điền Nam kế bên, chồng cô Dần tên Năm, là do bởi thứ Năm trong một gia đình đông anh chị em. Sau khi đám cưới cô Dần có được cái tên mới là con Năm Dần, vợ thằng Năm. Vợ chồng con Năm Dần được cha mẹ cất cho một căn nhà nhỏ cạnh bờ sông, cho thêm mấy công ruộng để hai vợ chồng ra riêng làm ăn với nhau.
Chiến tranh leo thang, Việt Cộng hoạt động khắp nơi, vợ chồng con Năm Dần được mấy ổng tuyên truyền, dụ dỗ hoạt động cho cách mạng đánh mỹ ngụy để cứu nước, với bản chất thật thà của người dân quê, không có khái niệm sâu sắc về tình hình chính trị, cộng thêm với hàng đêm được nghe cán bộ Việt Cộng rỉ tai tuyên truyền, vợ chồng con Năm Dần nghe xuôi tai, nghe theo lời mấy ổng mà hoạt động cho cách mạng để cứu nước. Căn nhà của vợ chồng con Năm Dần được biến thành căn hầm bí mật nuôi dưỡng cán bộ Việt Cộng hoạt động trong xã. Công việc của con Năm Dần cứ cách một vài ngày lại quẩy gánh rau củ qua chợ huyện bán, rồi mua chút muối, chút mắm, ít thuốc đau bụng, nhức đầu, mang về nhà chờ tối đến khi nhà nhà tắt đèn đi ngủ thì giở nắp hầm ra tiếp tế cho cán bộ Việt Cộng, một mâm cơm đem xuống hầm bí mật cho cán bộ, thì một sô nhựa cứt đái do cán bộ thải ra được Năm Dần mang lên đem đi đổ. Năm Dần rất khôn khéo, mỗi lần mua rất ít, theo lối kiến tha lâu đầy tổ, không cần phải che giấu gì cả. Với lối nói chuyện đẩy đưa, cười cợt cùng với mấy anh cảnh sát, Năm Dần đều đã thoát qua được cái trạm kiểm soát được dựng lên ngay đầu cầu của cảnh sát quốc gia.
Năm Dần còn có một công tác rất đặc biệt mà ngay cả chồng của Năm Dần cũng không biết, đó là công việc nhận diện xác chết của Việt Cộng bị lính quốc gia bắn chết, đem xác về bỏ ở đầu cầu cho thân nhân nhận diện đem về chôn cất. Sau một ngày nếu không có thân nhân nhận diện, các xác còn lại sẽ được chính quyền quốc gia cho đào hố chôn tập thể. Công việc nhận diện xác chết này của Năm Dần, sẽ giúp cho cán bộ Việt Cộng kiểm soát được danh tính của từng người đã bị lính quốc gia bắn chết.
Vợ chồng Năm Dần cứ tiếp tục hoạt động cho Việt Cộng, cho đến một ngày chính chồng của Năm Dần bị bắn chết. Đêm đó, chồng Năm Dần giở nắp hầm để cùng với đám cán bộ Việt Cộng chuẩn bị vượt sông để đi thâu thuế từ đồng bào, gọi là thuế chống Mỹ cứu nước. Chẳng may, đêm đó cả bọn lọt vào ổ phục kích của lính quốc gia bị bắn chết hết, gạo từ trong những bao ruột tượng được quấn ngang mình của đám Việt Cộng bị đạn bắn lủng văng tung toé, trắng xoá khắp nơi. Tất cả nhóm cán bộ Việt Cộng bị bắn chết, thân thể không thể nhận diện được, trong đó có chồng của Năm Dần.
Sau khi chồng chết, Năm Dần có tái giá lại với một tay Việt Cộng khác, nhưng có lẽ là do tuổi con cọp có số sát chồng, tay Việt Cộng này cũng bị bắn chết. Từ đó, không ai dám sáp lại với Năm Dần nữa. Năm dần ở vậy, tiếp tục làm công việc giao liên, nuôi dưỡng cán bộ Việt Cộng. Tháng Tư năm 1975, chiến tranh kết thúc, cộng sản hoàn tất việc xâm lăng miền Nam, đất nước thống nhất. Năm Dần được đảng và nhà nước vinh danh là anh hùng chống Mỹ, trong nhà Năm Dần treo la liệt đầy những bằng khen từ khắp các cơ quan đảng và nhà nước trao tặng. Những tay cán bộ Việt Cộng ngày xưa được Năm Dần che giấu, nuôi dưỡng, giờ đây đã xuất đầu lộ diện, nắm giữ những chức vụ uy quyền trong bộ máy nhà nước.
Thời gian qua mau, sau những háo hức, nô nức của những năm đầu giải phóng, Năm Dần ngày một già thêm, Năm Dần được cán bộ nhà nước đôn lên thành má Năm, xây dựng nên hình tượng một má Năm anh hùng trong đấu tranh giải phóng để cho đám trẻ noi theo, lấy đó làm gương mà hiến thân phục vụ cho đảng, cho nhà nước. Điều duy nhất mà má Năm phải làm là tự mưu sinh kiếm sống, vì không nằm trong danh sách là cán bộ nhà nước nên không được hưởng chế độ hưu trí. Má Năm cũng đã nhờ người làm đơn, kèm theo những bản sao của các giấy khen của nhà nước để gửi đi xin tiền hưu trí. Nhưng tất cả những lá đơn xin tiền hưu trí đã không bao giờ được cứu xét, má Năm Nguyễn Thị Dần không phải là cán bộ của nhà nước, nên không thể nằm trong diện nhận được tiền hưu trí.
Má Năm bắt đầu độ nhật bằng cái ấm để bán trà đá sinh sống qua ngày, mọi ngày như mọi ngày, má Năm phải thức dậy từ sáng sớm để đi bộ qua chợ huyện, nơi có đứa cháu họ có một gian hàng bán chạp phô, vì thương tình nên cho má Năm mượn chỗ để nấu một nồi nước trà, loại trà vụn rẻ tiền, má Năm nấu trà lược lấy nước để nguội, chờ cho nắng lên cho nước trà vào cái ấm bằng nhôm khá to, mua ít đá cục bỏ vào ấm. Tay cầm cái ấm, tay cầm cái ly, má Năm đi từ đầu chợ đến cuối chợ, rao bán trà đá cho mấy người bán hàng trong chợ. Có khách kêu, má Năm rót nước trà đá lạnh ra cái ly cho người khách, nhận mấy đồng tiền lẻ, rồi lại tiếp tục đi bán cho hết ấm nước trà đá, quay trở lại nhà đứa cháu châm thêm nước trà cho đầy, mua thêm đá bỏ vào ấm, rồi lại tiếp tục rao bán cho đến khi nồi nước hết thì thôi. Công việc bán trà đá này cũng giúp cho má Năm sống qua ngày.
Nhưng rồi, sức khỏe ngày một kém đi, má Năm không còn sức để đi vòng trong chợ để bán được nữa, mà bán trà đá thì phải đi vòng vòng rao bán thì mới có người mua. Cùng nghề đan thúng, túng nghề đan nia, má Năm xoay qua mua khoai lang về luộc để trên một cái mẹt, kiếm một chỗ ngồi nhất định để bán, công việc bán khoai lang luộc này tuy đỡ cực hơn bán trà đá, vì không phải đi nhiều, nhưng thu nhập lại không bằng, khiến cho cuộc sống của má Năm bữa đói, bữa no, tuỳ thuộc vào số lượng khoai bán được hết hay không...
Chiều cuối năm chợ huyện vắng người, vài cơn gió thổi qua, rác trong chợ bị gió thổi tốc lên, đàn ruồi xanh cũng theo đó bay lên. Bóng má Năm còm cõi, nặng nhọc bước lên cầu. Ngày mai là Tết rồi, Tết con cọp, cũng là năm tuổi của má Năm. Nhà còn có ít củi, không biết tấm ảnh bác Hồ và lá cờ tổ quốc có đủ cho má Năm nhóm được bếp củi để nấu được nồi chè cúng rước ông bà không.
Tri Lê- Brisbane
Mồng Một Tết Nhâm Dần