NHẬN VƠ (Trần Trung Chính)

NHẬN  VƠ

Trần Trung Chính

Động từ “nhận vơ” được từ điển định nghĩa như sau = nhận về mình cái biết rõ là không phải của mình.

Cộng Sản Việt Nam hay còn gọi là Việt Cộng đã “nhận vơ” nhiều sự kiện lịch sử, nhưng trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ nêu 4 sự kiện quan trọng, đó là DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUỐC, DANH XƯNG VIỆT MINH, HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENEVE 1954 và HIỆP ĐỊNH PARIS 1973.

1.DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUỐC : Nguyễn Sinh Cung rời Sài Gòn vào năm 1911 ở bến cảng Nhà Rồng đi sang Pháp tìm kế mưu sinh (không phải là TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC như Việt Cộng vẫn tuyên truyền lừa bịp bấy lâu nay), khi ấy học lực của Nguyễn Sinh Cung khoảng lớp 7 lớp 8, chưa hề theo học tại bất cứ trường trung học nào của Pháp và cũng chưa hề đậu văn bằng Brevet hay văn bằng Baccalaureat của Pháp, thế mà tới năm 1921 ông ta tự xưng là tác giả của bản văn viết bằng Pháp văn kết tội Thực Dân Pháp tại Đông Dương. Bây giờ (từ năm 1960 trở về sau)mọi người đều biết rõ tác giả của bản văn ấy là của Luật Sư PHAN VĂN TRƯỜNG và Kỹ Sư NGUYỄN THẾ TRUYỀN, còn Nguyễn Sinh Cung chỉ là một anh tập việc của nhà in mà thôi, nghĩa là làm “tà lọt” cho 2 ông khoa bảng danh giá vừa nói trên. Ông Nguyễn Thế Truyền có thể nói là Kỹ Sư Hóa Học đầu tiên của người Việt du học tại Pháp và vợ ông là công chúa trong hoàng triều Leopold của đế quốc Bỉ.

Sau này nhờ đọc tài liệu nghiên cứu về nhà văn Phan Khôi trong Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm của nhà văn Thụy Khê, thế hệ sau mới biết lý do thầm kín mà bản thân ông Phan Khôi bị chính quyền Cộng Sản Miền Bắc “đì” dữ dội. Đó là nhà cách mạng Phan Chu Trinh trước khi qua đời tại Sài Gòn vào năm 1926, đã gửi thư riêng cho nhà văn Phan Khôi yêu cầu tìm hiểu và làm rõ lý lịch cũng như hành tung chính trị của kẻ mang tên  Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Chú thích :

ĐÌ là động từ của người bình dân miền Nam VN nói về thái độ kỳ thị, sách nhiễu, đe dọa,bao vây và đầy đọa của một bên có quyền lực đối với một bên là những kẻ yếu thế hơn nhưng không chịu khuất phục kẻ mạnh.  

2.DANH XƯNG VIỆT MINH : Việt Minh là danh xưng tóm tắt của  Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, tổ chức này do 2 nhà cách mạng Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần thành lập. Nhưng trong thời gian sau khi Thế Chiến II chấm dứt, lịch sử VN cận đại chỉ được biết những hoạt động của cụ Nguyễn Hải Thần - có lẽ cụ Hồ Học Lãm đã qua đời vào thời điểm trước 1943 -1944, thay vào đó người ta nghe đến danh xưng của ông Trương Bội Công như là cùng với cụ Nguyễn Hải Thần làm lãnh tụ của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội. Ông Trương Bội Công cũng biến mất vào thời điểm nào người viết cũng không rõ, chỉ thấy trong những năm 1945-1946 một mình cụ Nguyễn Hải Thần còn hoạt động. Tỉnh Quảng Đông của Trung Hoa vào thời điểm trước năm 1945 là nơi các nhà cách mạng VN thoát khỏi sự kềm kẹp của Pháp và Nhật lưu trú : và Trung Hoa Quốc Dân Đảng có thế lực chính trị rất mạnh tại tỉnh này vì trước kia, Tướng Tưởng Giới Thạch được ông Tôn Dật Tiên bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng của Trường Võ Bị Hoàng Phố, phía cố vấn Borodine của Liên Sô đòi hỏi chính phủ Trung Hoa phải bổ nhiệm Chu Ân Lai làm Chỉ Huy Phó kiêm nhiệm chức vụ Chính Ủy. Các sĩ quan trẻ của Trung Hoa sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Hoàng Phố ra đời đã nắm giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc như trung đội trưởng, đại đội trưởng… cho đến tư lệnh sư đoàn cũng như tư lệnh lộ quân (theo sự hiểu biết chủ quan của người viết, lộ quân của quân đội Trung Hoa có quân số lớn hơn quân đoàn của Anh – Pháp)

Sau khi ông Tôn Dật Tiên qua đời vào năm 1928, các sứ quân miền Bắc Trung Hoa hùng cứ mỗi người một tỉnh đánh nhau để tiếm quyền chính phủ trung ương. Khác với người Nga (coi trọng vai trò của chính ủy trong các đơn vị quân đội), truyền thống văn hóa của người Trung Hoa rất tôn trọng Tam Cương – QUÂN SƯ PHỤ - nên Tướng Tưởng Giới Thạch được tất cả các tướng lãnh miền Nam bầu ông lên làm Tổng Tư Lệnh Đạo Quân Bắc Phạt để đánh dẹp các sứ quân miền Bắc. Sau khi dẹp tan các sứ quân miền Bắc, Tướng Tưởng Giới Thạch được bầu làm Tổng Tài (một danh xưng được coi như là “vua của nước Trung Hoa”) và ông chọn Nam Kinh là thủ đô của Trung Hoa [ có lẽ ông không chọn Bắc Kinh vì các sứ quân miền Bắc đã đầu hàng nhưng ông không hoàn toàn tin tưởng vào lòng trung thành của họ: dĩ nhiên ông tin tưởng vào các tướng lãnh miền Nam hơn vì trong quá khứ họ đã từng là “học trò của ông” và khi ông lên làm TỔNG TÀI, họ coi ông như là quân vươngvừa là sư phụ của họ.]

Tướng Tưởng Giới Thạch rất ghét Cộng Sản, nên khi ông nắm quyền, ông đuổi các cố vấn Nga về nước, đồng thời xua đuổi các cán bộ Cộng Sản Trung Hoa không cho bọn này tham gia chính quyền khiến cho các lãnh tụ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức… phải bỏ chạy về  phía Tây của Trung Hoa, sau này các sử gia gọi đó là vuộc VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH. Do đó Hồ chí Minh - vì là cán bộ của Cộng Sản Quốc Tế nên bị Cảnh Sát Trung Hoa  QDĐ bắt và giam tại nhà lao Quảng Châu (thủ phủ của tỉnh Quảng Đông), chính cụ Nguyễn Hải Thần – thủ lĩnh của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đứng ra cam kết và bảo lãnh Hồ chí Minh ra khỏi nhà giam Quảng Châu để có người VN hoạt động đưa về nước một khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt. Vì vậy trong giai đoạn đầu, không bao giờ Hồ chí Minh dám để lộ vai trò Cộng Sản của y, khiến cho khi đoạt chính quyền của Thủ Tướng Trần Trọng Kim vào tháng 9/1945, mọi người vẫn cứ gọi là Việt Minh cướp chính quyền – chỉ có một số ít người mới biết đó là bọn Cộng Sản trá hình. Hồ chí Minh lặng lẽ đổi tên của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội thành Việt Nam Cách Mệnh Đồng Chí Hội, nhưng quần chúng không biết tên tổ chức mới này nên rõ ràng Hồ chí Minh đã nhận vơ danh xưng Việt Minh là tiền thân của Đảng Cộng Sản Đông Dương (rồi sau đó lại biến thành Đảng Lao Động Việt Nam).

3.HIỆP ĐỊNH GENEVE 1954

Nước Pháp vào năm 1940, Thống Chế Pétain đã đầu hàng quân Đức của Hitler và đã dời đô từ Paris về Vichy. Liên quân Anh – Pháp – Bỉ (Belgium)- Hòa Lan từ biên giới Pháp – Đức phải tháo chạy ra hải cảng Dunkerque dưới làn mưa bom của không quân Đức để nước Anh tận dụng mọi khả năng vận chuyển bằng tàu bè chuyển hết số quân này sang bên kia bờ biển Manche. Tướng Charles de Gaule phải dùng phi cơ bay sang Anh và thành lập Phong Trào Pháp Tự Do để kháng chiến chống lại quân của Hitler. Các nước đồng minh coi nước Pháp là xứ “bị chiếm đóng” cho nên các cuộc họp của các vị nguyên thủ của các quốc gia đồng minh không có đại diện của nước Pháp. Điển hình qua các cuộc hội nghị thượng đỉnh tại Cairo (Egypt), tại Teheran (Perse), tại Yalta (Liên Sô) chỉ có Thủ Tướng Churchill của Anh, Tổng Thống Roosevelt của Hoa Kỳ, Chủ Tịch Stalin của Liên Sô và Tổng Tài Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Quốc Gia.

Ngay khi quân Đồng Minh tiến vào Đức, mặc dù có quân đội của Tướng de Gaule đi kèm, nhưng Phong Trào Pháp Tự Do vẫn không được coi là đại diện của nước Pháp: cho nên tại Hội Nghị POSTDAM trên đất Đức, các đại diện của Tứ Cường (Anh – Hoa Kỳ – Liên Sô và Trung Hoa Quốc Gia) đã ký vào hiệp định Postdam nhằm qui định trách nhiệm và lãnh thổ của phe Trục sau khi phe Đồng Minh hoàn toàn chiến thắng và kết thúc Thế Chiến Thứ Hai ở các khu vực Âu Châu – Trung Đông – Phi Châu và Á Châu : nước Pháp vẫn không có đại diện tại Thỏa Ước Postdam !!!

Tại khu vực Á Châu, trong vùng Đông Dương, quân đội Trung Hoa Quốc Gia có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, quân đội Anh có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam. Ngay trong ngày ký thỏa ước Postdam, thủ tướng Churchill hay tin Đảng Bảo Thủ của ông thua phiếu nên phải chuyển quyền sang Đảng Lao Động do ông Atlee lãnh đạo; tuy nhiên tân thủ tướng Atlee không thay đổi điều cam kết của chính phủ Anh với Phong Trào Pháp Tự Do. Do đó khi Tướng Gracey cầm đầu 5,000 lính Anh - Ấn vào cảng Sài Gòn thì 2 ngày sau Tướng Leclerc của Pháp dẫn 10,000 lính Pháp cũng đổ bộ vào cảng Sài Gòn (quân đội Pháp tháp tùng mà lại đông hơn liên quân Anh - Ấn gấp 2 lần).

Về mặt chính trị bọn Việt Cộng của Hồ chí Minh chỉ nói phét và ba hoa với dân Việt Nam dốt nát về công pháp quốc tế: HCM tuyên bố nước VN độc lập – tự chủ nhưng không được bất kỳ quốc gia nào công nhận, ngay Stalin cũng chẳng biết HCM là ai và Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai vào năm 1945 thì chưa nắm quyền, cho nên khi quân đội của Tướng Lư Hán (quân khu Quảng Đông) tiến vào ngả Lạng Sơn đồng thời Tướng Trương Phát Khuê (quân Khu Vân Nam – Quý Châu) tiến vào ngả tỉnh Hà Giang thì Bộ Ngoại Giao chính phủ HCM không dám lên tiếng phản đối.  Về phía Nam cũng như vậy, chính phủ của HCM cũng không dám phản đối liên quân Anh - Ấn đã đành, mà cũng không dám phản đối quân Pháp của Tướng Leclerc tháp tùng quân Anh - Ấn đổ bộ xuống cảng Sài Gòn. Sau 3 tháng hoàn tất nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật Bản, toàn thể 5,000 quân Anh -Ấn trở về nước và chắc chắn chỉ còn quân đội Pháp hiện diện tại vĩ tuyến 16 trở về Nam.

Nhưng ở phía Bắc, sau khi giải giới quân đội Nhật, 200 ngàn quân Trung Hoa không rút về Tàu mà ở lại lãnh  thổ VN, nên Hồ chí Minh bắt buộc “đi đêm” với Moutet (Bộ Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại tức là danh xưng mới của Bộ Thuộc Địa) để mời quân đội Pháp ra Bắc với mục đích là dùng quân Pháp đuổi quân của Tướng Lư Hán và Tướng Trương Phát Khuê trở về Tàu. Có một số đụng chạm giữa quân Pháp và quân Tàu ở cảng Hải Phòng, nhưng chính phủ Pháp gửi đặc sứ sang tận Trùng Khánh và đã ký thỏa ước để quân đội Trung Hoa rút về nước: thực tế vào năm 1946, quân đội Trung Hoa của Tướng Tưởng Giới Thạch đang thua quân Cộng Sản của Mao Trạch Đông, nên đồng ý với Pháp rút 200,000 quân từ VN về.

Rồi chiến tranh Việt – Pháp vào tháng 12/1946 đã xảy như mọi người Việt Nam đều biết. Quân đội Pháp với hỏa lực chiếm ưu thế trong khi quân của HCM rút lui khỏi các thành phố và tổ chức các trận đánh nhỏ để giữ vững nông thôn và các vùng đồi núi miền trung du Bắc Việt. Nhưng cuối năm 1949, Tướng Tưởng Giới Thạch phải bỏ Hoa Lục để chỉ giữ được đảo Đài Loan (Formosa, sau này được gọi là Taiwan). Mao Trạch Đông ra lệnh cho các tướng lãnh của quân đội Trung Cộng phải hết lòng yểm trợ quân Việt Minh, do đó rất nhiều người Việt Nam ngạc nhiên khi thấy quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp “trưởng thành” một cách thần kỳ như đứa bé trong truyện Phù Đổng Thiên Vương của Việt Nam cổ đại. Các chiến dịch Đông – Xuân và chiến dịch Biên  Giới của Tướng Giáp khiến quân đội Pháp mất đi các cứ điểm quan trọng như Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Đông Triều, Quảng Ninh...Ngay cả căn cứ Vĩnh Yên, quân đội Pháp cũng đang bị bao vây (căn cứ này đang do Đại Tá Vanuxem trấn giữ), Vĩnh Yên chỉ cách Hà Nội không quá 100 cây số, nếu Vĩnh Yên thất thủ, Hà Nội sẽ rơi vào tay quân Việt Minh.

Nước Pháp năm 1951 rất nghèo vì sau Thế Chiến 2 kinh tế suy thoái nên chuyện bỏ Đông Dương là điều có khả năng xảy ra nhất là về mặt địa lý chính trị, mất Đông Dương mẫu quốc Pháp và các thuộc địa ở châu Phi (như Maroc, Tunisie, Algerie...) không hề hấn gì. Hiểu rõ khả năng và ý chí của nước Pháp, nên Tổng Thống Hoa Kỳ thời bấy giờ là ông Harry Truman đã cử một phái đoàn đặc biệt sang Paris thuyết phục chính phủ Pháp cố giữ Đông Dương với sự trợ giúp của Hoa Kỳ về mọi mặt. Đó là lý do Thống Tướng De Lattre de Tassigni được chính phủ Pháp bổ nhiệm làm Tư Lệnh Đạo Quân Viễn Chinh Pháp kiêm Cao Ủy Đông Dương (chức vụ Cao Ủy Đông Dương có nghĩa là Thống Tướng De Lattre de Tassigni có toàn quyền về quân sự, chính trị, xã hội, kinh tế... quyết định của ông tại Đông Dương không cần phải tham khảo ý kiến từ Paris).

Đạo quân Viễn Chinh của Pháp do Thống Tướng De Lattre de Tassigni lãnh đạo đông tới 180,000 người cộng thêm 40,000 quân đã trú đóng sẵn tại Đông Dương thành ra 220,000 người là đạo quân lớn thứ hai tại mặt trận tại Á Châu, chỉ thua đạo quân thứ nhất là 250,000 quân của Hoa Kỳ + 30,000 quân của các nước tự do khác (như Anh, Australia, New Zeland, Thailand, Thổ Nhĩ Kỳ...) chiến đấu dưới lá cờ LHQ tại Triều Tiên. Là một tướng giỏi, vừa đển VN, ông đã giải vây secteur Vĩnh Yên khiến quân Việt Minh của Võ Nguyên Giáp phải tháo chạy qua biên giới Hoa Việt vì Võ Nguyên Giáp sợ quân Pháp truy kích nếu quân Việt Minh còn ẩn núp trong các rừng núi của Bắc Việt. Sau đó Thống Tướng De Lattre de Tassigni đi Hoa Kỳ ngay để ký kết những thỏa thuận quân sự mà phái đoàn Hoa Kỳ mới chỉ hứa miệng với ông khi ông còn ở Paris.

Thống Tướng De Lattre de Tassigni có đặt vấn đề với các giới chức của HK rằng quân đội viễn chinh của ông không đông bằng quân đội HK tham chiến tại Triều Tiên, không có hải pháo yểm trợ mạnh mẽ như quân đội Hoa Kỳ và nhất là  không quân của Pháp chỉ có 200 phi cơ phải trải dài trên toàn vùng Đông Dương, không quân Pháp không có Pháo Đài Bay B-29 như không quân Hoa Kỳ thì khó mà chiến thắng được quân Việt Minh có được sự yểm trợ ồ ạt của quân Trung Cộng. Phía Hoa Kỳ cho Thống Tướng De Lattre de Tassigni 2 hiểu biết rất quan trọng :

Hiểu biết thứ nhất : Hoa Kỳ giúp đỡ quân đội Pháp tại Đông Đương không phải là giúp nước Pháp tái chiếm lại Đông Dương để đặt lại nền thống trị của chế độ thục dân; Hoa Kỳ giúp quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương là mượn tay quân đội viễn chinh Pháp đánh cho quân Việt Minh tan tác hầu sau khi chia đôi đất nước VN thì miền Bắc VN không thể nuốt chửng miền Nam được.

Hiểu biết thứ hai : Việt Nam phải chia 2 theo Hiệp ước Postdam ký hồi tháng 5/1945; vùng đất từ vĩ tuyến 16 trở về phía Bắc  do quân đội Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch phụ trách, nay  chính quyền Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan thì chúng ta trao lại cho quân đội của Mao cũng không có gì quá đáng. Cũng tương tự như tại Triều Tiên, thỏa ước Postdam quy định quân đội Nga và quân đội Mỹ bắt tay nhau tại vĩ tuyến 38; tới năm 1950 Kim Nhật Thành xâm lăng Nam Hàn liền bị Hoa Kỳ chận đánh cho đến năm 1953 thì cù cưa tại vĩ tuyến 38 thì phải đình chiến thôi.

Trở lại Đông Đương, Tướng De Lattre de Tassigni bàn thảo kế hoạch tác chiến với Đại Tướng Raoul Salan và Ban Tham Mưu rồi ông phải trở lại Pháp để chữa bệnh ung thư rồi mất tại Pháp vào năm 1952. Với khả năng có được, Tướng Salan thành lập các căn cứ quân sự như Điện Biên Phủ, Nà Sản...không phải để ngăn chận đà tiến quân của quân Việt Minh tiến về Hà Nội như bọn VC vẫn tuyên truyền mà các căn cứ quân sự lớn với béton cốt sắt vững chãi của Pháp đóng vai trò như những CỤC ĐƯỜNG CHIÊU DỤ ĐÁM KIẾN BU QUANH để tiêu diệt.

Trung Tá Hồ Văn Thống – nguyên chủ sự Phòng An Ninh của Sở An Ninh Quân Khu I – có kể với người viết là khi ông đi học khóa Tham Mưu Cao Cấp của Trường Chỉ Huy Tham Mưu tại Dalat, một giảng viên có nói với các khóa sinh rằng HK không dùng B.29 để cứu căn cứ ĐBP không phải vì HK muốn hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương mà là vì HK biết chắc rằng sau trận ĐBP quân đội của Võ Nguyên Giáp phải đợi tới 10 năm sau nữa mới có thể tái chiến được.

Bọn VC tha hồ khoác lác, gáy lên ầm ĩ nào là chiến thắng “long trời lở đất”, nước Việt Nam nhỏ bé đã đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ”, nhưng quân đội Pháp “ngưng chiến đấu” tại căn cứ ĐBP (Tướng De Castries ra lệnh  ngưng chiến đấu chứ ông không đầu hàng – người viết căn cứ trên nhật lệnh hành quân của ông, vẫn còn lưu trữ trong văn khố quân đội Pháp). Trong khi tại các mặt trận khác, quân đội Pháp vẫn giữ trận tuyến và họ lên đường về nước theo quy định của Hiệp Định Geneve chứ không tháo chạy như liên quân Anh-Pháp-Bỉ-Hòa Lan hồi 1940 tại hải cảng Dunkerque.

Hiệp Định Geneve là hiệp định ngưng bắn giữa quân đội Pháp và quân đội Việt Minh chứ không phải là Hòa Ước nên nước Pháp không có trách phải bồi thường chiến tranh cho VNDCCH. Dẫn chứng, sau 1954 nước Pháp được hưởng sự trợ giúp của HK qua chương trình Marshall, khoảng 1960, nước Pháp đã tiến lên hàng cường quốc khi nước Pháp cho nổ thử nghiệm bom nguyên tử ở Nam Thái Bình Dương trong khi VC là kẻ thắng trận thì không có gì để mà hãnh diện, để mà khoe khoang với thế giới.

Người ta cũng không ai nghĩ rằng vào năm 1953, trong khi chưa kiểm soát được lãnh thổ tại miền Bắc và miền Bắc Trung Phần thì HCM lại  mở ra  những cuộc đấu tố các địa chủ dưới chiêu bài CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT. Nguyên do HCM phải chiều lòng theo ý muốn của Mao Trạch Đông : Khi Thống Tướng De Lattre de Tassigni đem 180,000 quân từ Âu châu sang Đông Dương thì chính HCM và Võ Nguyên Giáp biết chắc là quân Việt Minh khó có cơ hội chiến thắng quân Pháp nếu không có sự trợ giúp ồ ạt của Trung Cộng. Với tâm lý của Mao, Mao chỉ giúp cho Người Nhà nên HCM bắt buộc phải mở các cuộc đấu tố dưới sự chỉ đạo của các cán bộ Trung Cộng để được Mao thừa nhận là Người Nhà và sau đó, quân Việt Minh đã nhận được sự trợ giúp về mọi mặt của Trung Cộng.

4.HIỆP ĐỊNH PARIS 1973

Từ Geneve trở về Bắc Kinh, Chu Ân Lai đã báo cáo tình hình cho Mao Trạch Đông và chính Mao đã nhận định như sau : Hiệp Định Geneve 1954 là trở ngại lớn cho HCM , y ta không thể thống nhất miền Nam được vì HCM không có khả năng và trong công Pháp quốc tế, miền Nam sẽ trở thành vương quốc như Lào.

Mao Trạch Đông nói chỉ có “chiến tranh giải phóng” mới giúp HCM thống nhất đất nước được. Ngay trong năm 1955, Võ Nguyên Giáp đã bí mật sang Tàu 2 lần (chỉ cách nhau khoảng 7 tháng) và đã được quân khu Quảng Đông cũng như quân khu Vân Nam ký khế ước cung cấp 450,000 súng trường (không kể  lựu đạn và chất nổ). Sau khi một số lô hàng được nhập kho, HCM mới dám công bố chính thức ra mắt  MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM ngay tại Hà Nội vào tháng 12 năm 1959. Rồi từ đó, chiến tranh xảy ra tại miền Nam Việt Nam với biết bao hệ lụy như  mìn nổ vào các xe đò, xe lam chở thường dân, các cuộc pháo kích và phục kích các xe quân đội, cũng như các các cuộc ám sát viên chức xã ấp dưới vỏ bọc “xử tử những tên Việt gian Mỹ - Ngụy”...

Có một dữ kiện quan trọng đã diễn ra vào thời điểm 1960 -1963 nhưng ít ai để ý , đó là chính giới Hoa Kỳ trong giai đoạn 1954 đến 1960 rất ủng hộ chính Phủ Ngô Đình Diệm, nhưng sau khi MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM ra đời, chính phủ Hoa Kỳ đã thay đổi thái độ. Rất ít người đã có thể giải thích lý do chính đáng của sự thay đổi này; nhưng theo thiển ý của người viết: CSBV vẫn giữ nguyên ý định xâm lăng miền Nam bằng trận địa chiến như Kim Nhật Thành xâm lăng Nam Hàn vào năm 1950, nhưng vào thời điểm 1960 CSBV không thể thực hiện ý định mở một cuộc trận địa chiến nên HCM đã mở một cuộc chiến tranh du kích làm vỏ bọc cho mộc cuộc chiến tranh quy ước.

Khi chống đỡ một cuộc xâm lược bằng chiến tranh quy ước núp dưới vỏ bọc chiến tranh du kích, Hoa Kỳ biết chắc quốc sách ẤP CHIẾN LƯỢC của chính phủ Ngô Đình Diệm sẽ không hữu hiệu nên chính phủ HK đã đưa ra nhiều messages để cảnh báo anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhưng chúng ta đã thấy 2 anh em Tổng Thống Diệm không chịu hiểu ý muốn của chính phủ HK, nên chính phủ HK đành phải tổ chức một chính biến vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 để lật đổ chính quyền của Tổng Thống Diệm. Vào đầu năm 1964, trận đánh tại Bình Giả chứng minh rằng 3,000 tay súng của làng Bình Giả không thể chống nổi gần 2 sư đoàn quân chính quy của VC do Trần Đình Xu chỉ huy (đến nỗi Bộ TTM / QL VNCH phải sử dụng tới 3 tiểu đoàn TQLC + 3 tiểu đoàn BĐQ + 2 chi đoàn Thiết Giáp mà cũng không dứt điểm được chiến trận, sau cùng phải sử dụng thêm 3 tiểu đoàn Nhảy Dù tấn công thẳng vào mật khu Hát Dịch mới dứt điểm chiến trận).

Chiến tranh VN thực sự do CSVN phát động từ 1960 và chấm dứt vào  30 tháng 4 năm 1975, dù VC có cố gắng khoa trương và khoác lác những điều không thực, nhưng VC quả thực là kẻ chiến bại trong cuộc chiến này :

1)Các lãnh tụ của VC như HCM, Lê Duẩn,Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh... không phải là người yêu nước. Họ hy sinh biết bao sinh mạng của dân chúng 2 miền Nam Bắc VN chỉ để phục vụ cho “quyền lợi” và “lý tưởng” của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản , những khẩu hiệu độc lập, dân tộc, dân quyền chỉ có giá trị tuyên truyền lừa bịp: chính tấm bia trong lăng tẩm của Lê Duẩn đã ghi rõ “ta đánh với nhau với Đế Quốc Mỹ là đánh thay cho Liên Sô – Trung Quốc” (người viết không trích dẫn nguyên văn mà chỉ nhớ đại ý)  

2)Bọn lãnh đạo của CSVN coi nhân dân Việt Nam như là vốn quý của đất nước cho nên bọn chúng có quyền sử dụng nguồn vốn này như là Phạm Văn Đồng đã từng tuyên bố “dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn chúng ta vẫn phải làm để hoàn thành tâm nguyện của Hồ Chủ Tịch”. Người viết ước tính từ 1964 đến 1968, Cộng Quân Bắc Việt phải đem trên 200,000 cán binh vào Nam/ mỗi năm, nhưng hàng rào điện tử Mac Namara không ghi nhận số cán binh trở về Bắc tức là số tử trận rất lớn. Thực tế, muốn chấm dứt chiến tranh, BV không cần phải ký hòa ước hay văn bản đầu hàng gì cả mà hãy để chiến tranh tàn lụi không kèn không trống phù hợp với đường lối không tuyên chiến nên không cần phải ký văn bản đầu hàng.

3)Lịch sử VN trong thế kỷ 17 và 18 đã từng có trường hợp chiến tranh tàn lụi khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn chỉ đánh nhau trong 45 năm đầu, sau đó ngưng chiến rồi cả dòng họ Trịnh giữ quyền bính tại phương Bắc và dòng họ Nguyễn giữ quyền bính tại phương Nam cho đến khi Nguyễn Huệ dứt điểm cả 2 họ vào cuối thế kỷ 18 (với chiến thắng Đống Đa vào năm 1789).

4)Theo thiển ý chủ quan của người viết chiến tranh VN xảy ra từ 1945 đến 1975 là do tất cả những lãnh đạo của 2 miền (người Quốc Gia cũng như người Cộng Sản) đã đánh giá quá thấp khả năng của người Mỹ và của quốc gia Hoa Kỳ cho nên nước VN chúng ta tan hoang sau 1975 cho đến nay 2025 vẫn chưa thấy có cơ hội tiến lên ngang bằng với Đại Hàn (South Korea), Mông Cổ (Ngoại Mông), Singapore... là những quốc gia đã đạt được những thành tích kỳ diệu mà không cần phải vỗ ngực tự hào như là VN ta đã đánh thắng 2 thằng đế quốc đầu sỏ của thế giới.

Bài viết này xin tạm dừng ở đây vì khả năng hiểu biết của người viết có giới hạn cũng như người viết không phải là khoa bảng về các lĩnh vực kinh tế, khoa học thuần lý, khoa học không gian...chỉ xin gợi ý để quý vị cao nhân VN khác nêu được những vấn đề quan yếu nhằm giúp cho đất nước và con người VN đừng đứng “đội sổ” như hiện nay (tự hào cầm cờ đỏ cũng là một hình thức ĐỨNG HẠNG CHÓT, tương tự như tài xế xe tải luôn treo cờ đỏ vào cuối những công trình xây dựng quá dài)

San José ngày chủ nhật 17 tháng 8 năm 2025.

Trần Trung Chính