Vinh danh giáo sư TNN)
Kính thưa quý vị, thưa quý bạn
Trong ít phủt ngắn ngủi mà chương trình cho phép tôi sẽ không làm công việc ném thêm một hột muối ca tụng vào cái biển lớn mênh mông những vinh danh giáo sư Trần Ngọc Ninh từ các học trò trực tiếp, tức là các sinh viên y khoa và bác sĩ tốt nghiệp trường Y khoa đại học Sài gòn, và từ những người học các môn nhân văn ngoài trường y khoa hay là đọc ít nhiều những bài viết đủ loại của giáo sư TNN trên các tạp chí. Tôi được ban tổ chức gợi ý phát biểu với tư cách là học trò ruột của giáo sư. Nói như thế phần nào cũng đúng bởi tôi là người nội-trú-kiêm-phụ-giáo kể là độc nhất làm việc trong khu Giải phẫu Tiểu nhi bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn đông bệnh cả chục năm. Ở tư thế này tôi chìm đầu trong công việc sáng trưa chiều tối đêm cho nên được cho ở trong một căn phòng ở bệnh viện Nhi đồng. Còn giáo sư TNN với tư cách là bác sĩ thường trú ở trong một nhà lầu hai tầng cạnh nhà bác sĩ PĐT giám đốc bệnh viện, cách vài chục thước. Tôi cũng là người được giáo sư nhờ làm thay phòng mạch những khi ông đi hội nghị thế giới dài ngày. Mở ngoặc nhờ loại công việc này mà tôi có tiền hỏi vợ và cưới vợ. Tóm lại tôi vừa là học trò, vừa là láng giềng, vừa là đồng nghiệp thay thế phòng mạch giáo sư . Tại phòng mạch tuyệt đại đa số là các bệnh người già đau xương thấp khớp. (“Đồng nghiệp” là chữ giáo sư dùng để giới thiệu tôi “Dr TXN mon collègue et ami” trong một buổi trình bầy y học mà giáo sư tổ chức thời gian khoảng cuối 1974). Cũng nhờ lối làm việc này mà nội lực chuyên môn của tôi sung mãn vì ngày đêm vất vả với đủ loại bệnh và tật trẻ con. Từ đau bụng dưới vì màng trinh bịt kín không cho phép thoát kinh khi đến tuổi dậy thì, đến hai âm hộ, đến một tinh hoàn, đến nước tiểu, hay phân ra lỗ rốn, đến lỗ dò thông trực tràng với âm hộ hài nhi, đến bướu bạch huyết (cystic hygroma), đến tật trương ruột già bẩm sinh (mégacolon congenital -Hirschsprung disease) vân vân…
Có được những chuyện này vắn tắt kể ra đây là vì do một trao đổi ngắn ngủi khi chào từ biệt giáo sư TNN lần rửa tay mổ cuối cùng ở bệnh viện Nhi đồng trước khi mặc quần áo lính đi làm y sĩ trung úy ở Kontum. Ông hỏi “Anh có tính thi vào ban giảng huấn không”. Tôi nói không, vì nhà nghèo, đông anh em. Chỉ tính làm bác sĩ chữa bệnh thông thường để giúp đỡ gia đình. Ông liền nói nhà ông cũng nghèo, có khi hút ốc vặn cầm hơi vân vân…Câu này làm tôi cảm động. Và cảm phục giáo sư. Vì bỗng nhiên thấy ông thầy mình như tri kỷ của mình, không giấu cái nghèo., và từ cái nghèo mà vùng lên. Chẳng khác nhà thơ có một không hai của Việt Nam là Tản Đà làm thơ bài thơ Sự Nghèo kể ra cái nghèo của mình:
Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo
Cảnh có núi sông cùng xóm ngõ
Nhà không gạch ngói chẳng gianh pheo
Văn chương rẻ ế coi mà chán
Giăng gió ham mê nghĩ cũng phèo
Kiếp trước nhớ sinh đời Hạ Vũ
Mưa vàng ba buổi chán xu tiêu.
Tuy vậy nhưng tôi vẫn tơ lơ mơ chẳng nhúc nhích gì. Cứ tà tà vui thú làm y sĩ trung úy trưng tập ở sư đoàn 22 ở Kontum nổi tiếng là đất khỉ ho cò gáy nước độc ai cũng ngán. Nhưng thực đến nơi mới biết công việc chỉ là khám bệnh cho vợ con lính lèo tèo vài mạng một ngày. Lâu lâu được lệnh sư đoàn đi làm công tác dân sự vụ trong các buôn Thượng khám bệnh phát thuốc cho đồng bào thiểu số và nhờ thế được cho uống rượu cần lần đầu tiên và độc nhất trong đời. Nhưng ghê muốn chết. Vì một là chưa từng bao giờ uống rượu, hai là có một cái ống trúc hút mà đủ loại miệng lần lượt ngậm vào hút rượu. Cạn bình thì có người đổ thêm nước lạnh múc từ suối lên.
Lúc rảnh thì lái xe jeep ra phi trường Kontum đón máy bay Air Việt Nam hạ cánh và nhả ra loe ngoe dăm ba hành khách với cô chiêu đãi viên áo dài xanh, sáng cả một vùng trời.
Cho đến lúc giáo sư TNN nhắn qua em tôi (TXD) bảo về nộp đơn thi vào ban giảng huấn về làm việc ở khu Giải phẫu Tiểu Nhi mà giáo sư TNN cân nhắc gọi là Phẫu Nhi Khoa bệnh viện Nhi đồng.
Ngày chót trước khi rời đơn vị về trường Y khoa thì có một vụ tản thương bằng trực thăng ở plateau G là vùng đèo heo hút gió, tôi tình nguyện đi để nếm mùi máy bay chuồn chuồn. Lúc về mới được nói cho biết rằng đó là một quyết định dại dột, nguy hiểm. Vì một là du kích Thượng cộng có thể bắn sẻ mất mạng bất cứ lúc nào. Hai là vì lý do mê tín. Trong quân ngũ thời chiến mà tình nguyện làm thay công tác có thể là điềm gở hết sống. Tuy nhiên nhờ thế được ngồi trên trực thăng lần đầu tiên và độc nhất trong đời, bay trong thung lũng hẹp giữa hai rặng núi, tạo cảm giác lâng lâng như có thể thò tay ra ngoài hái một nhánh lá đem về làm kỷ niệm.
**
Sau khi đi tù cải tạo về, làm việc ở khu giải phẫu tiểu nhi BVNĐ trở lại thì giáo sư TNN đã vượt biển sang Mỹ định cư. Năm 1980, tôi cũng vượt biển tới Mỹ, vì không làm việc được với VC. Ít lâu sau thì liên lạc được với giáo sư. Từ đó điện thoại thăm hỏi vào những dịp ngày tư ngày tết và trao đổi đủ thứ chuyện. Năm 2005, tôi nhận được cuốn sách Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh với giòng viết tay mấy chữ đề tặng ”bản đặc biệt của anh chị Trần Xuân Ninh”. Trước 1975 tôi đã thỉnh thoảng nghe giáo sư thuyết trình về truyện Kiều, nhưng chẳng bao giờ để ý và tham dự. Vì nghĩ rằng vị giáo sư giải phẫu nổi tiếng là hắc, lúc nào cũng mặt lạnh như tiền- không thể có điều gì nói nhiều ngoài những điều quanh quẩn về mổ xẻ, nguyên tắc vô trùng, vô thương….Nhưng vì lời đề tặng đặc biệt, tôi đã đọc và khám phá ra rằng vị giáo sư mặt lạnh là người lãng-mạn-một-cách-sâu-sắc. Ông tìm đọc những bài thơ Nguyễn Du làm trong chuyến đi sứ sang Tầu khi qua Thăng Long kinh đô cũ đã đổi thay tàn tạ dưới tân triều nhà Nguyễn. Và đã rung động những xúc động của nhà thơ. Khi gặp lại người ca nữ trong phủ người em ruột thời hoàng kim với giọng ca lảnh lót, tư thái hấp dẫn trong chiếc áo hồng thuở nào, nay đã là người thiếu phụ có chồng với 3 con nhưng còn mang chiếc áo hồng nhạt mầu, Nguyễn Du viết bài thơ Ngô gia đệ cựu ca cơ não nuột. Bài thơ tả hai mái đầu bạc cận kề chẩy nước mắt tưởng lại cái gốc cũ ngày xưa không còn, vì vật đổi sao rời, nhưng ý tình chưa dứt chẳng khác gì chiếc ngó sen đã gẫy mà những sợi tơ mong manh còn đó nối hai đoạn đã rời . Trong cuốn Tố Như và Đoạn trường Tân Thanh giáo sư TNN đã nhớ tới câu Kiều ”dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” khi đọc bài Ngô gia đệ cựu ca cơ
Phồn hoa nhân vât loạn lai phi (Loạn đến nhân vật phồn hoa nay đã khác)
Huyền hạc quy lai kỷ cá tri (Con hạc đen trở về nào mấy người biết đến , huyền hạc chỉ tác giả)
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển ( Đã từng nghe tiếng hát dịu dàng trong cánh tay áo hồng – người hát (e lệ) sau cánh tay áo hồng che mặt)
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly (tóc bạc gặp nhau (chỉ còn) khóc nỗi luân lạc
Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thủy (Chậu đổ rồi chỉ còn vui -yên chịu- với tình trạng nước đổ khó lấy lại)
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti (ngó sen bị nạn gẫy rồi nhưng tơ chưa đứt)
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử (Nghe nói đã lấy chồng có 3 con)
Khả lân do trước khứ thì y (Đáng thương (vẫn) mặc cái áo thuở đã qua)
(Ngô gia đệ cựu ca cơ) (Người ca nữ cũ nhà em tôi )
**
Cho đến khi cách đây ba năm, tôi đến thăm giáo sư thì ông đã không còn ngồi trước bàn viết với tập giấy, cây bút và kể cho nghe những chuyện đời chìm nổi hấp dẫn ông đã trải qua nữa. Mà chỉ ngồi một chỗ vì chân đã yếu. Bên cạnh có chiếc xe đẩy. Trước mặt là hình đức Ta bà Giáo chủ Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật và Đương lai Hạ sinh Di lặc tôn Phật. Có lần ông nói với tôi : “Tôi biết anh có nghiên cứu đạo Phật. Anh biết rằng trong Phật giáo không được có cái ngã, không có cái mạn. Anh có viết một bài công kích một ông linh mục. Về bỏ nó đi”. Tôi giật mình, không ngờ ông có đọc những bài viết của tôi trên trang mạng điện tử tôi làm. Tôi viết bài đó vì thấy ông linh mục giảng thuyết máy móc một chiều, tin tuyệt đối vào lời kinh thánh người Do Thái viết. Mà cá nhân tôi thì đơn giản nghĩ rằng tín ngưỡng là tin vào một điều gì không có. Cho nên tôi là người chỉ đi lương nghĩa là sống nương theo những nguyên tắc tam giáo cổ điển Khổng Lão Phật. Tôi đã im lặng nghe và quyết định theo lời giáo sư TNN. Nhưng cho tới hôm nay vẫn chưa làm được vì tôi sinh ra vốn không có tính quy củ, xếp đặt đâu ra đó như là một nhân viên thư viện. Cho nên không biết đã chứa bài đó ở đâu trong đám vô số bài tôi viết trong các đĩa cứng. Lần cuối gặp ông thì ông đọc cho nghe Bát nhã ba la mật đa tâm kinh (Prajna paramita heart sutra) gồm 265 chữ Hán Việt mà tôi cũng thuộc. Bài tâm kinh ngắn ngủi này chỉ ra yếu quyết làm sao khỏi khổ. Định đọc theo, để gián tiếp cho giáo sư thấy tôi cũng theo ông được. Nhưng chỉ vài câu thì giáo sư đã thở hổn hển nói phều phào. Tôi cáo lui để ông nghỉ mệt. Không ngờ đó là lần chót cạnh giáo sư.
Đến đây là hết phần phát biểu của tôi. Xin cám tạ các quý vị đã chú ý theo rõi.
Trần Xuân Ninh (ngày 12 tháng 9 năm 2025)